Kiến thức y học phổ thông
Ðừng để tàn phế vì lao xương khớp
Trong các loại viêm khớp do vi khuẩn thì viêm khớp do vi khuẩn lao chiếm hàng đầu về tỉ lệ và mức độ gây tàn phế. Lao xương khớp được đánh giá là một trong những dạng bệnh lao nguy hại hàng đầu vì lứa tuổi thường mắc bệnh là từ 16 - 45; nếu bệnh không được phát hiện sớm và điều trị tích cực sẽ ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống, vì hậu quả của bệnh này là gây tàn phế nặng nề tới các xương khớp bị lao.
Vi khuẩn lao có thể tấn công tới tất cả các xương khớp. Các xương khớp xốp, càng lớn và chịu sức nặng càng nhiều thì nguy cơ mắc lao càng cao, thậm chí chúng có thể tấn công và phá hủy bộ khung nâng đỡ cơ thể. Đích ngắm đầu tiên của vi khuẩn lao khi tấn công vào xương khớp chính là các khớp, nhất là khớp háng, khớp gối và cột sống. Tổn thương thường khu trú ở một vị trí, rất ít khi ở nhiều vị trí. Trong đó lao cột sống chiếm 60-70%, lao khớp háng chiếm 15-20%, lao khớp gối chiếm 10-15%, lao khớp cổ chân 5-10%, lao khớp bàn chân 5%.
Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do vi khuẩn lao người, có thể gặp vi khuẩn lao bò, rất hiếm gặp vi khuẩn kháng cồn kháng toán không điển hình. Lao xương khớp thường xuất hiện sau lao sơ nhiễm 2-3 năm (giai đoạn 2 theo Ranke). Hay thấy sau lao các màng và trước lao các nội tạng. Thông thường, vi khuẩn lao tới khớp chủ yếu theo đường máu, ít trường hợp vi khuẩn theo đường bạch huyết, có thể theo đường tiếp cận như lao khớp háng do lan từ ổ áp-xe lạnh của cơ thắt lưng.
Những đối tượng dễ mắc lao xương khớp: Trẻ nhỏ chưa được tiêm phòng lao bằng vaccin BCG. Có tiếp xúc với nguồn lây đặc biệt là nguồn lây chính, nguy hiểm, tiếp xúc thường xuyên liên tục. Đã và đang điều trị lao sơ nhiễm, lao phổi hay một lao ngoài phổi khác. Có thể mắc một số bệnh có tính chất toàn thân như: đái tháo đường, loét dạ dày - tá tràng, cắt 2/3 dạ dày. Cơ thể suy giảm miễn dịch, còi xương, suy dinh dưỡng, nhiễm HIV/AIDS, suy kiệt nặng.
Cũng như các bệnh lao khác, khi bị lao xương khớp, bệnh nhân có thể sẽ gặp các dấu hiệu nhiễm trùng, nhiễm độc dài ngày như sốt dai dẳng ở mức độ vừa và nhẹ, sốt về chiều, mệt mỏi, kém ăn, xanh xao và đổ mồ hôi trộm. Những chỗ xương khớp bị vi khuẩn lao tấn công sẽ bị sưng to, nhưng không nóng và không đỏ như những bệnh viêm khớp cấp tính khác. Nếu nhìn được vào ổ khớp sẽ thấy màng hoạt dịch phù nề, loét mặt khớp, sụn có các nốt lao, củ lao và các ổ tiêu hủy tổ chức.
Những ổ áp-xe hình thành, trong đó có mủ, hoại tử bã đậu, ở thân xương có thêm các mảnh xương chết và cả tủy xương cũng bị viêm. Các khối áp-xe bùng nhùng ở cạnh khớp hoặc đã vỡ để lại các lỗ rò. Có trường hợp mủ lao đi theo các thớ cơ, tạo nên các ổ áp-xe ở xa, như ổ áp-xe của lao cột sống thắt lưng có thể nằm ở hố chậu hoặc ổ áp-xe của lao khớp háng xuống tận đùi.
Cùng với các dấu hiệu nhiễm khuẩn, sưng các khớp, bệnh nhân lao xương khớp sẽ thấy các hoạt động cơ thể khó khăn hơn do các khớp và xương đau nhẹ hoặc vừa phải. Chẳng hạn, nếu lao cột sống thì không cúi, không ngửa được; lao khớp háng thì không co duỗi được chân... Các dấu hiệu khác có thể gặp là teo các cơ vận động khớp; gù vẹo, gấp khúc cột sống trong lao cột sống, đi tập tễnh lệch người trong lao khớp háng; liệt và rối loạn cơ tròn do ổ áp-xe lạnh gây chèn ép vào tủy sống,…
Khi thấy các dấu hiệu kể trên, bệnh nhân cần sớm đi khám xương khớp và lao để chẩn đoán loại trừ. Đừng chủ quan cho rằng cơ thể mệt mỏi, đau nhức là do thay đổi thời tiết, do lao động quá sức,… mà trì hoãn việc kiểm tra sức khỏe.
Nhờ những tiến bộ về mặt chẩn đoán và điều trị, hiện nay bệnh lao nói chung và viêm xương khớp do lao nói riêng có thể được chữa khỏi hoàn toàn với điều kiện chẩn đoán sớm và điều trị sớm đúng nguyên tắc. Về điều trị, chủ yếu vẫn là dùng các thuốc chống lao theo đường toàn thân. Cần để khớp nghỉ tương đối ở giai đoạn đầu chừng 4-5 tuần bằng cách nằm trên giường cứng, không nên nằm trên đệm mềm, cũng không cần bó bột bất động tuyệt đối như cách điều trị trước đây. Sau đó, phải tập vận động khớp để tránh cứng khớp. Một số trường hợp phải can thiệp ngoại khoa: có ổ áp-xe lớn, chèn ép tủy do cột sống gấp khúc, đốt sống xẹp hoặc áp-xe lạnh.
Theo Suckhoe&doisong