Kiến thức y học phổ thông
Chloramphenicol Hạn chế dùng đường uống
Cloramphenicol là kháng sinh thường có tác dụng kìm khuẩn, nhưng có thể diệt khuẩn ở nồng độ cao hoặc đối với những vi khuẩn nhạy cảm cao, được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng, sự lạm dụng thuốc này trong điều trị đã là một nguyên nhân khiến cho các vi khuẩn kháng lại thuốc cao, nên ngày nay người ta đã không dùng cloramphenicol để điều trị những nhiễm khuẩn thông thường hoặc trong những trường hợp không được chỉ định, như cảm lạnh, cúm, nhiễm khuẩn họng; hoặc làm thuốc dự phòng nhiễm khuẩn mà chỉ dùng để điều trị những nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn nhạy cảm, do rickettsia, chlamydia, khi những thuốc ít độc hơn không hiệu quả hoặc bị chống chỉ định. Ngoài ra, cloramphenicol còn được dùng (tại chỗ) để điều trị nhiễm khuẩn ở mắt, một số nhiễm khuẩn ngoài da (dưới dạng thuốc mỡ hay kem, trong nhiễm khuẩn âm đạo dưới dạng viên đặt).
Do hiệu lực của cloramphenicol giảm nhiều và do nguy cơ độc máu cao nên hạn chế dùng dạng thuốc theo đường uống. Đối với các dạng dùng tại chỗ:
Thuốc được dùng tại chỗ ở mắt dưới dạng dung dịch 0,16%, 0,25%, hoặc 0,5% hoặc thuốc mỡ 1%. Ðể điều trị nhiễm khuẩn bề mặt ở mắt, nhỏ 1 hoặc 2 giọt dung dịch tra mắt cloramphenicol, hoặc cho một lượng nhỏ thuốc mỡ tra mắt vào túi kết mạc dưới, cứ 3 - 6 giờ một lần, hoặc thường xuyên hơn nếu cần. Sau 48 giờ đầu, có thể tăng khoảng cách giữa các lần dùng thuốc. Cần tiếp tục điều trị ít nhất 48 giờ sau khi mắt có vẻ bình thường.
Bôi ngoài da thuốc mỡ hoặc kem 1% cloramphenicol để chống nhiễm khuẩn da hoặc dùng chế phẩm phối hợp cloramphenicol với corticoid chống viêm. Bôi 1 - 3 lần/ngày.
Dùng viên đặt âm đạo 250mg để chống nhiễm khuẩn trong viêm âm đạo và viêm cổ tử cung âm đạo. Ðặt sâu trong âm đạo 1 viên trước khi đi ngủ, trong 6 - 12 ngày.
Khi dùng thuốc, người bệnh có thể gặp tác dụng phụ không mong muốn do thuốc gây nên như ngoại ban, buồn nôn, nôn, tiêu chảy... Nhưng tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất của thuốc là ức chế tủy xương không phục hồi dẫn đến thiếu máu không tái tạo, có tỷ lệ tử vong cao, có thể xảy ra chậm tới nhiều tháng sau điều trị. Vì vậy, phải ngừng ngay thuốc nếu có hiện tượng giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu, những chứng huyết học bất thường khác có thể quy cho do cloramphenicol, hoặc viêm dây thần kinh thị giác hay ngoại biên...
Không dùng thuốc cho phụ nữ mang thai (nhất là gần đến kỳ sinh nở hoặc trong khi chuyển dạ) vì có thể xảy ra những tác dụng độc đối với thai nhi (như hội chứng xám là một thể trụy tim mạch xảy ra ở trẻ đẻ non và trẻ sơ sinh khi dùng cloramphenicol). Thận trọng dùng cho bà mẹ cho con bú vì những tác dụng độc đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bú sữa mẹ.
Theo Suckhoe&doisong